Nguyễn Đức T và đồng phạm, phạm tội “Cố ý gây thương tích”. - phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (điều 134 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
85 /2019/HS-PT
ngày 14/06/2019
ngày 14/06/2019
- 9
- 11
- Nguyễn Đức T và đồng phạm, phạm tội "Cố ý gây thương tích". - phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (điều 134 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
- Phúc thẩm
- Hình sự
- TAND tỉnh Thừa Thiên Huế
- Không
- 0
-
Nguyễn Đức T và đồng phạm, phạm tội "Cố ý gây thương tích".
- Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc NHÂN DANH Bản án số: 85 /2019/HS-PT Ngày: 14-6-2019 NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Trọng Điệp. Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thanh Lộc và ông Tôn Anh Dũng. Thư ký biên bản phiên tòa: Ông Lê Thanh Thọ, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia phiên tòa: Bà Đoàn Thị Ái Hoa, Kiểm sát viên. Ngày 14 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở, số 11 Tôn Đức Thắng, thành phố H, Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2019/HSPT ngày 23/4/2019 đối với bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Thanh T1, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 11/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bị cáo có kháng cáo: 1. Nguyễn Đức T (Tên gọi khác: Vẹo), sinh ngày 10/6/1991 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Tổ 4, khu vực 2, phường HS, thành phố H; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Y và bà Lê Thị H; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú"; có mặt. 2. Nguyễn Thanh T1 (Tên gọi khác: Đỏ); sinh ngày 15/5/1989 tại tỉnh Thừa Thiên Huế.Nơi cư trú: Số 31/93 đường ĐHT, phường PV, thành phố H; nghề nghiệp: Thợ nhôm kính; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn C (chết) và bà Phan Thị H; có vợ là Phan Thị B và có 02 con. tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú"; có mặt. Trong vụ án này còn có bị cáo Võ Văn TH không có kháng cáo, không bị kháng nghị. NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và D biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Tối ngày 21/10/2017, Nguyễn Đức T cùng bạn gái đi ăn tối ở đường ĐTH, thành phố H thì nhận được điện thoại của người nhà báo tin Nguyễn 1 Đăng Q (tên gọi khác: Cu Lỳ; sinh năm 1993; trú tại: tổ 4, khu vực 2, phường HS, thành phố H) cùng bạn đến nhà ông ngoại của T là ông Lê Mậu Th (ở cùng tổ với Q) đập phá tài sản. Đến khoảng 21 giờ 00 phút, T đưa bạn gái về, rồi quay lại nhà mình lấy 01 cái đùi gỗ dài khoảng 60cm, đi tìm Q để đánh. Khi đi ngang qua nhà ông Nguyễn Văn X (sinh năm 1940; ở tại tổ 4, khu vực 2, phường HS, thành phố H), T thấy Q cùng 03 người bạn đang ngồi nhậu tại sân nhà ông X, nhưng do thấy nhóm của Q có đông người, nên T không dám vào đánh, mà đi đến quán cà phê Xờm ở gần đó để tìm người trợ giúp. Khi đến nơi, T gặp Võ Văn TH, Lê Mậu V (sinh năm 1986) và Bùi Văn D (sinh năm 1989; cùng trú tại tổ 4, khu vực 2, phường HS). T kể lại chuyện Q cùng bạn đến nhà ông ngoại của mình đập phá tài sản và nhờ TH, V, D cùng giúp mình đi đánh nhóm của Q, thì được TH, V và D đồng ý. T gọi điện thoại cho Võ Hữu P (tức Phanh; sinh năm 1994; trú tại tổ 4, khu vực 2, phường HS) hỏi: "Có cơ bi da gãy nào không?". Khoảng 05 phút sau, P đưa tới cho T 02 gậy cơ bi da đã bị gãy. T đưa cho V và D mỗi người 01 cái. Lúc này, TH điều khiển xe mô tô về nhà mẹ vợ mình và rủ Nguyễn Thanh T1 (là em cọc chèo của TH) cùng tham gia. T1 đồng ý và cầm theo 01 cái cán chổi gỗ đi đến chỗ T và cả nhóm đang đứng đợi. TH đi qua công trình xây dựng gần đó tìm lấy 01 cái đùi sắt hộp vuông dài khoảng 80cm. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, nhóm của T đi đến nhà ông Nguyễn Văn X, nơi Q đang ngồi nhậu. Khi đến nơi, T vào trước hỏi Q về việc tại sao đến phá nhà ông ngoại mình; còn TH thì la lên: "giết,... giết...". Nhóm của Q thấy thế liền bỏ chạy ra phía sau nhà ông X, rồi trốn ở phía cánh đồng. T đuổi theo và ném cái đùi gỗ mình đang cầm về phía nhóm của Q, nhưng không trúng ai. Sau đó, nhóm của T đi về. Lúc này, Việt và D không tham gia cùng nhóm của T nữa, mà bỏ đi chỗ khác. Nghe tiếng ồn ào, ông X và con, cháu của mình gồm: bà Nguyễn Thị Thùy L (tên gọi khác: Muội; sinh năm 1974), ông Nguyễn Anh T2 (tên gọi khác: Hon; sinh năm 1968), chị Nguyễn Thị Mỹ D (sinh năm 1996) và Nguyễn Thị Diễm Q (sinh năm 1998) chạy ra chửi bới, rồi cùng nhau dùng vỏ chai bia Huda ném về phía nhóm của T. Thấy vậy, nhóm của T bỏ chạy về phía quán cà phê Xờm. Một lát sau, T cùng TH, T1 tiếp tục quay lại gây gổ với ông T3, thì bị ông T3cầm cây chằm (dùng chèo ghe) đuổi, nên bỏ chạy về lại phía quán cà phê Xờm. Tại đây, T nhặt được 01 cây gậy tre, quay lại đuổi ông T3 chạy về phía nhà ông X. Lúc này, ông T3 cùng các chị D, Q tiếp tục dùng vỏ chai bia ném về phía nhóm của T, còn ông X đứng ngay gần đó. Thấy vậy, T và TH liền đến quầy tạp hóa của bà Phan Thị M (sinh năm 1952), lấy vỏ chai bia Huda (loại chai 0,5 lít) để ném lại; còn T1 thì xách thùng đựng nhiều vỏ chai bia Huda đến tiếp ứng cho T, TH lấy ném. Trong quá trình hai bên dùng chai bia nén lẫn nhau, ông X bị nhóm của T ném vỏ chai bia trúng vào vùng đầu và ngã xuống. Ông T3 thấy vậy la lên: "Cha tau chết rồi". Nghe vậy, T, TH và T1 bỏ đi. (các BL số:30-61; 77-97; 112-129; 142-189; 209-216; 245-291; …). 2 Hậu quả: Ông Nguyễn Văn X bị vỏ chai bia ném trúng đỉnh trán phải gây thương tích, được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế, đến ngày 07/11/2017 thì xuất viện. TH và các chị Dn, Q bị mảnh chai văng vào chân và chỉ bị thương nhẹ. * Vật chứng thu giữ: Một (01) mảnh vỡ thủy tinh màu nâu đỏ và một (01) đôi dép Thái màu vàng, có dính sơn ở quai. Tại bản Kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể số 318-17/TgT ngày 24/10/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn X như sau: + Đa chấn thương vùng đầu gây chấn thương sọ não/vỡ sọ trán phải/xuất huyết và dập não bán cầu trái và hố thái dương trái. 25 %. + Bệnh nhân còn điều trị, chưa đánh giá được di chứng chức năng sau chấn thương sọ não, hiện chưa xếp tỷ lệ. + Tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại là 25% (hai mươi lăm phần trăm). + Kết luận khác: Tổn thương vùng trán phải do vật tày có hình vòng cung tác động với lực lớn (phù hợp với điều tra ban đầu do đít vỏ chai bia). Tổn thương vùng chẩm phải do vật tày có cạnh sắc gây nên. Tại bản Kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể (giám định bổ sung) số 372-17/TgT ngày 28/11/2017, Trung tâm Pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn X như sau: + Đa chấn thương vùng đầu gây chấn thương sọ não/vỡ sọ trán phải/xuất huyết và dập não bán cầu trái và hố thái dương trái điều trị nội khoa ổn định, hiện không ảnh hưởng chức năng. + Tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại là 25% (hai mươi lăm phần trăm). + Kết luận khác: Tổn thương vùng trán phải do vật tày có hình vòng cung tác động với lực lớn (phù hợp với điều tra ban đầu do đít vỏ chai bia). Tổn thương vùng chẩm phải do vật tày có cạnh sắc gây nên. * Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Nguyễn Văn X yêu cầu bồi thường số tiền 53.500.000 đồng. Quá trình điều tra, Nguyễn Đức T, Võ Văn TH và Nguyễn Thanh T1 đã tự nguyện bồi thường cho ông X tổng số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Trong đó: T bồi thường 26.500.000 đồng; TH bồi thường 3.000.000 đồng và T1 bồi thường 500.000 đồng. Ông X yêu cầu các bị cáo phải liên đới tiếp tục bồi thường cho mình số tiền còn lại là 23.500.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo T tự nguyện bồi thường số tiền còn lại là 23.500.000 đồng, sau đó các bị cáo sẽ tự giải quyết với nhau. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 11/3/2019, Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định: 3 Căn cứ Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015; tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đức T, Võ Văn TH và Nguyễn Thanh T1 phạm tội "Cố ý gây thương tích". Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b,s khoản 1 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 02 ( hai) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b,s khoản 1 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Võ Văn TH 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b,s khoản 1 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T1 01 (một) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 18/3/2019, bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Thanh T1 có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên toà phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Thanh T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21 giờ 30 ngày 21/10/2017, tại khu vực trước nhà ông Nguyễn Văn X ở tổ 4, khu vực 2, phường HS, thành phố H; Nguyễn Đức T, Võ Văn TH và Nguyễn Thanh T1 dùng vỏ chai bia Huda ném nhau với những người trong gia đình của ông X. Trong quá trình hai bên dùng chai bia ném lẫn nhau, ông Nguyễn Văn X đã bị Nguyễn Đức T, Võ Văn TH và Nguyễn Thanh T1 ném vỏ chai bia Huda trúng vào đầu gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 25%. Hành vi của các bị cáo như đã nêu trên đã phạm vào tội: "Cố ý gây thương tích", phạm vào điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự 2015. Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố H đã kết án các bị cáo tại bản án số 37/2019/HSST ngày 11/3/2019 là có căn cứ, đúng pháp luật. [2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Thanh T1, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo là thanh niên có nhận thức, biết phân định đúng sai, phải trái trong quan hệ cuộc sống, biết việc sử 4 dụng vũ lực xâm hại đến sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, thế nhưng các bị cáo đã bất chấp tất cả, sử dụng hung khí gây thương tích cho ông X, vơi tỉ lệ tổn hại sức khỏe là 25% Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đã cân nhắc, xem xét đầy đủ các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của cá bị cáo, mức hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp, không nặng, tại giai đoạn phúc thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, do vậy, không thể chấp nhận kháng cáo của các bị cáo mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm, như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa. [3] Án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Thanh T1 phải chịu theo luật định. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên; QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Thanh T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm a, khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b,s khoản 1 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T (tức là Vẹo) 02 ( hai) năm tù về tội "Cố ý gây thương tích", thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Áp dụng điểm a, khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b,s khoản 1 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T1 (tức là Đỏ) 01 (một) năm tù về tội "Cố ý gây thương tích", thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. 2. Án phí hình sự phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Thanh T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng. 3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. * Nơi nhận: - Vụ GĐKT I TANDTC; - TAND cấp cao tại Đà nẵng; - VKSND cấp cao tại Đà nẵng; - VKSND tỉnh TT Huế; - Phòng PV27 CA tỉnh; - TAND thành phố Huế; - VKSND thành phố Huế; - Công an thành phố Huế; - Sở Tư pháp; - Bị cáo; - Lưu HS; THS; THCTP. TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA (đã ký) Hoàng Trọng Điệp 5 6
Nhận xét
Đăng nhận xét