Ly hôn - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
170
ngày 19/05/2020
ngày 19/05/2020
- 1
- 12
- Ly hôn - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
- Sơ thẩm
- Hình sự
- TAND TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
- Không
- 0
-
Xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 BLHS
- Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0
TAND TỈNH TH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TAND TP TH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Bản án số: 170/2020/HSST. Ngày: 19/05/2020 NHÂN DANH NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH – TỈNH TH Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Anh Thư Các hội thẩm nhân dân: 1. Bà Vũ Thị Liên Minh 2. Bà Nguyễn Thị Kim Thu Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Thanh Huyền cán bộ toà án nhân dân TP TH. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP TH tham gia phiên toà: Ông Nguyễn Đức Chiến - Kiểm sát viên. Ngày 19 tháng 05 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 155/2020/HSST ngày 31/03/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2020/QĐXXST ngày 27/4/2020 đối với bị cáo: Họ và tên: Hoàng Văn T, sinh ngày 16 tháng 12 năm 1964. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam Nơi ĐKHKTT: Xóm Trường Sơn, xã Cúc Đường, huyện Võ Nhai, tỉnh TH. - Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ hoc̣ vấn : 07/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Ma Văn T, sinh năm 1933 (đã chết); Con bà: Hoàng Thị Đ (đã chết); Gia đình có 08 anh em, bị cáo là con thứ sáu ; Vơ: Nông ̣ Thị Th, sinh năm 1962; Có 02 con, lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1992. - Tiền án: Không; Tiền sư: Không. ̣ - Nhân thân: + Tại quyết định số 864/QĐ-UBND ngày 15/6/2006 của Ủy ban nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh TH áp dụng biện pháp hành chính "Đưa người nghiện ma túy vào chữa bệnh" tại trung tâm giáo dục xã hội 05, 06 tỉnh TH thời hạn 12 tháng, đã chấp hành xong ngày 25/6/2007. 1 + Tại quyết định số 746/QĐ-UBND ngày 07/4/2009 của Ủy ban nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh TH áp dụng biện pháp hành chính "Đưa người nghiện ma túy vào chữa bệnh bắt buộc" tại trung tâm chữa bệnh GD-LĐXH tỉnh TH thời hạn 12 tháng, đã chấp hành xong ngày 15/4/2010. + Tại quyết định số 1518/QĐ-UBND ngày 07/6/2012 của Ủy ban nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh TH áp dụng biện pháp hành chính "Đưa người nghiện ma túy vào chữa bệnh bắt buộc" tại trung tâm chữa bệnh GD-LĐXH tỉnh TH thời hạn 12 tháng, đã chấp hành xong tháng 5/2013. Hiện bị cáo đang được tại ngoại tại địa phương (Không bị tạm giữ, tạm giam). Có mặt tại phiên tòa * Người chứng kiến: Vũ Quang M, sinh năm 1961(Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 4, phường T lập, TP. TH, tỉnh TH NỘI DUNG VỤ ÁN Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào hồi 11 giờ 15 phút ngày 23/02/2020, tổ công tác của Công an phường T Lập, thành phố TH đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 04 của phường thì phát hiện 01 người đàn ông (sau xác định là Hoàng Văn T) đang đi bộ có dấu hiệu nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiếp cận yêu cầu kiểm tra đối với T. Qua kiểm tra phát hiện tại túi áo bên phải T đang mặc có một gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng. T khai đó là ma túy (Heroine) mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hoàng Văn T và niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định.. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữcủa Hoàng Văn T có khối lươṇ g 0,205 gam. Niêm phong ký hiệu T gửi giám định. Tại Bản kết luận giám định số 371/KL-KTHS ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Hoàng Văn T trong mẫu T gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lương ̣ 0,205 gam. Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn T đã khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 23/02/2020, T một mình đi bộ từ cổng bệnh viện Lao và bệnh phổi TH thuộc phường T Thịnh, thành phố TH ra khu vực đường Thống nhất thuộc phường T Lập, thành phố TH với mục đích mua Heroine để sử dụng cho bản thân. Khi đi dọc đường, T gặp và mua 01 gói Heroine với giá 200.000đ của một người đàn ông không quen biết. T cất gói Heroine vào trong túi áo bên phải đang mặc rồi đi bộ về hướng bệnh viện Lao và bệnh phổi TH (nơi T đang điều trị bệnh) để tìm nơi sử 2 dụng ma túy. Khi T đi đến tổ 4, phường T Lập thì bị tổ công tác Công an phường T Lập, thành phố TH phát hiện, lập biên bản bắt quả tang và tiến hành niêm phong vật chứng nêu trên. Lời khai của Hoàng Văn T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu T hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH chờ xử lý. Tại bản cáo trạng số 174/CT - VKSTPTN, ngày 25/03/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, tỉnh TH đã truy tố Hoàng Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Kết thúc phần xét hỏi, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TH giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; - Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 38 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo . - Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015: - Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T (bên trong chứa chất ma túy) Miễn án phí HSST cho bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN Căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: [1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến 3 hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp. [2] . Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Văn T tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 15 phút ngày 23/02/2020, tại khu vực tổ 4, phường T Lập, thành phố TH, Hoàng Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,205 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường T Lập, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi nêu trên của Hoàng Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" [3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Nội dung Điều 249 quy định: "1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. c,... Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam". [4] . Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng: - Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma túy là mặt hàng cấm do Nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma túy đã dẫn bị cáo tới con đường phạm tội, việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết nhằm răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung. - Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân là người nghiện ma túy, đã 03 lần bị áp dụng biện pháp hành chính đưa đi trung tâm cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo vẫn không cai được nghiện. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng do nghiện ma túy không từ bỏ được nên vẫn tiếp tục mua ma túy sử dụng cho bản thân dẫn đến phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến nên bị cáo đươc hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định Điều 52 Bộ luật hình sự. 4 [5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, bản thân bị cáo tuổi đã cao, mắc bệnh lao phổi nặng nên tình trạng sức khỏe của bị cáo không ổn định. Hội đồng xét xử nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo. [6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS, tuy nhiên bị cáo là người nghiện ma túy, là người có bệnh tật, không có sức khỏe để lao động có thu nhập, không có tài sản gì riêng, nơi cư trú của bị cáo thuộc diện đặc biệt khó khăn, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [7]. Về vật chứng vụ án: - Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T(bên trong chứa chất ma túy) [8]. Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, theo Hoàng Văn T khai mua của một người đàn ông không quen biết. Do không xác định được lai lịch địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý. [9]. Về án phí: Xã Cúc Đường, huyện Võ Nhai, tỉnh TH là nơi cư trú của bị cáo thuộc xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tường Chính phủ, nên cần miễn án phí HSST cho bị cáo theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội. [10]. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Bởi các lẽ trên. QUYẾT ĐỊNH: Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn T: 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. 2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: 5 - Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu T, bên trong chứa ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn màu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh TH và chữ ký của những người tham gia niêm phong. (Toàn bộ vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 229 ngày 24/03/2020 tại Chi cục THADS thành phố TH, tỉnh TH) 3. Án phí: Căn cứ điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. 4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VKSND, Tỉnh, TP; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà - Công an TPTN; - THA phạt tù; - Sở Tư pháp TN; - Bị cáo; - Lưu hồ sơ vụ án. Nguyễn Anh Thƣ 6
Nhận xét
Đăng nhận xét