Chuyển đến nội dung chính

Nguyễn Văn S và đồng phạm - phạm tội trộm cắp tài sản (điều 173 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)

45
ngày 08/10/2019
  • 6
  • 7
  • Nguyễn Văn S và đồng phạm - phạm tội trộm cắp tài sản (điều 173 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
  • Sơ thẩm
  • Hình sự
  • TAND huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
  • Không
  • 0
  • Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 26/5/2019, tại Trung tâm y tế huyện N, thuộc địa phận Khu 6, TT N, huyện N, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Văn S, Đỗ Văn Q lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, biển số 34E1- 204.97 của anh Vũ Việt D ở Khu 2, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương. Trị giá tài sản bị chiếm đoạt 15.100.000 đồng

  • Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0




TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG TỈNH HẢI DƯƠNG Bản án số: 45/2019/HS-ST Ngày: 08/10/2019. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG- TỈNH HẢI DƯƠNG Với thành phầnHội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Quý Long. Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Đinh Văn Châu; 2. Bà Phạm Thị Tuẫn. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Hải Loan- Cán bộ Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang- tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa: Ông Vũ Đình Phương- Kiểm sát viên. Ngày 08/10/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang mở phiên toà công khai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 46/2019/HSST ngày 03 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST- HS, ngày 27 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo: 1. Nguyễn Văn S, sinh năm 1994; tại xã Q, huyện T, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: thôn A, xã Q, huyện T, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1964; Có vợ là Phạm Thị Lan, sinh năm 1996 đã ly hôn và 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/6/2019 theo Quyết định tạm giữ số 34/QĐTG, ngày 03/6/2019 và chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 34/LTG, ngày 07/6/2019 của cơ quan CSĐT- công an huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương tại trại tạm giam Kim Chi- Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa. 2. Đỗ Văn Q, sinh năm 1977; tại xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Đỗ Văn H (đã chết) và bà Bùi Thị X (đã chết); có vợ Vũ Thị M (đã chết) và 02 con, lớn sinh năm 1997 nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/6/2019 theo Quyết định tạm giữ số 33/QĐTG, ngày 03/6/2019 và chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 33/LTG, ngày 07/6/2019 1 của cơ quan CSĐT- công an huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương tại trại tạm giam Kim Chi- Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa. Người bào chữa cho bị cáo Q: bà Nguyễn Thị Ưng- Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa. Bị hại: Anh Vũ Việt Dũng, sinh năm 1997; Địa chỉ: khu 2, thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 26/5/2019, Nguyễn Văn S đến nhà Đỗ Văn Q ở thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng rủ Q sang địa bàn huyện Ninh Giang xem có ai sơ hở lén lút chiếm đoạt tài sản. Q đồng ý, khi đi Sáng mang theo 02 chìa khóa (phần thân khóa màu trắng, dạng dẹt, tay cầm màu đen). Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Jupiter, biển số 34M4- 5109 của Q chở Sáng. Khi đi đến Trung tâm y tế huyện Ninh Giang (khu 6- TT Ninh Giang- Ninh Giang- Hải Dương), Q điều khiển xe mô tô vào trong sân, trước cửa khoa khám bệnh. Q, Sáng mỗi người ngồi một ghế đá trước đầu xe. Đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, anh Vũ Việt Dũng, sinh năm 1997; Địa chỉ: Khu 2- TT Ninh Giang- Ninh Giang- Hải Dương điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, màu xanh trắng, biển số 34E1- 204.97 đi vào Trung tâm y tế huyện Ninh Giang, sau đó dựng xe bên cạnh xe của Q, rồi đi bộ vào khoa Sản của Trung tâm y tế huyện Ninh Giang. Sáng liền đi theo anh Dũng khoảng 5 m để theo dõi. Sáng đi ra vị trí xe của anh Dũng, đứng bên trái xe mô tô, rồi dùng 01 chìa khóa trong chùm 02 chìa khóa mang đi từ trước đưa vào ổ khóa điện, dùng lực hai tay vặn sang trái mở được khóa điện, Sáng nổ máy rồi điều khiển xe mô tô đi qua cổng Trung tâm y tế huyện Ninh Giang và đi về nhà Q. Khi Sáng lấy được xe, Q đứng dậy điều khiển xe mô tô của mình về nhà. Tại nhà Q, Q cùng Sáng tháo biển số 34E1- 204.97 trên xe mô tô của anh Dũng, sau đó lắp biển số 34L9- 0789 vào xe mô tô trên. Ngày 03/6/2019, Sáng, Q thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản tại xã Thanh Hồng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương thì bị phát hiện bắt giữ khai nhận hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản tại huyện Ninh Giang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Hà tiến hành khám xét chỗ ở của Đỗ Văn Q ở thôn Câu Hạ A- Quang Trung An Lão- Hải Phòng thu giữ: 01 xe mô tô Sirius, màu xanh trắng, biển số 34L9- 0789, số khung 3210GY013836, số máy E3X9E037434. Tại kết luận định giá tài sản số 17/KLĐG ngày 11/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ninh Giang, kết luận: Giá trị xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu xanh, vành đúc, biển số 34E1- 204.97, số khung 3210GY013836, số máy E3X9E037434, tại thời điểm ngày 26/5/2019 là 15.100.000 đồng. Tại bản cáo trạng số 48/CT- VKS- NG, ngày 30/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang truy tố các bị cáo Nguyễn Văn S và Đỗ Văn Q phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173- Bộ luật hình sự. 2 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn S và Đỗ Văn Q phạm tội "Trộm cắp tài sản". Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38- Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo S từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; Xử phạt bị cáo Q từ 9 đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; Về hình phạt bổ sung: Không; Về trách nhiệm dân sự: Không; Về vật chứng: Không; Về án phí: Bị cáo S có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Q thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Người bào chữa cho bị cáo Q: Đề nghị HĐXX áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17; Điều 58; Điều 38- Bộ luật hình sự. Đề nghị HĐXX, khi quyết định hình phạt xem xét đến nhân thân và hoàn cảnh gia đình bị cáo Q rất khó khăn, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Q 7 đến 9 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Q. Bị hại anh Vũ Việt Dũng xác định đã nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, biển số 34E1- 204.97, số khung 3210GY013836, số máy E3X9E037434 và 01 biển số 34L9- 0789. Anh Dũng không có yêu cầu gì khác về bồi thường dân sự đối với các bị cáo S, Q. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ninh Giang, Điều tra viên, VKSND huyện Ninh Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2]. Về hành vi của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo Nguyễn Văn S và Đỗ Văn Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 26/5/2019, tại Trung tâm y tế huyện Ninh Giang, thuộc địa phận Khu 6, TT Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Văn S, Đỗ Văn Q lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, biển số 34E1- 204.97 của anh Vũ 3 Việt Dũng ở Khu 2, thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Trị giá tài sản bị chiếm đoạt 15.100.000 đồng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì muốn có tiền ăn chơi tiêu xài nên trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Ninh Giang. Các bị cáo Nguyễn Văn S và Đỗ Văn Q có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, không thuộc sở hữu của mình là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn S và Đỗ Văn Q đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. VKSND huyện Ninh Giang truy tố các bị cáo Nguyễn Văn S và Đỗ Văn Q về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật. Đây là vụ án có đồng phạm tham gia nhưng không có sự câu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội nên được xác định là đồng phạm giản đơn. Bị cáo Nguyễn Văn S là người chuẩn bị 02 chìa khóa, rủ rê bị cáo Đỗ Văn Q sang địa bàn huyện Ninh Giang có ai sơ hở để trộm cắp tài sản, bị cáo là người thực hành tích cực trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô của anh Dũng nên Sáng giữ vai trò thứ nhất trong vụ án. Đối với Đỗ Văn Q là người thực hành giúp sức và điều khiển xe mô tô chở Sáng sang địa bàn huyện Ninh Giang, cảnh giới cho Sáng để thực hiện hành vi phạm tội nên Q giữ vai trò thứ hai trong vụ án. [3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không; [4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo S, Q đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo bị bắt khi thực hiện hành vi trộm cắp tại địa bàn huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương trong quá trình điều tra đã đầu thú về hành vi phạm tội tại huyện Ninh Giang và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX sẽ áp dụng cho các bị cáo khi quyết định hình phạt. [5]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp với khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự. [6]. Về trách nhiệm hình sự: Bị hại anh Vũ Việt Dũng đã nhận lại tài sản. chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, biển số 34E1- 204.97, số khung 3210GY013836, số máy E3X9E037434. Anh Dũng không có yêu cầu gì khác về bồi thường dân sự đối với các bị cáo S, Q. HĐXX không xem xét, giải quyết. [7]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Ninh Giang đã ra quyết định trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Vũ Việt Dũng gồm: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Sirius, biển số 34E1- 204.97, số khung 3210GY013836, số máy E3X9E037434; Riêng biển số 34L9- 0789 xác định chủ sở hữu chị Vũ Thị Luân- Sinh năm 1981 ở Khánh Mậu- Thanh Thủy- Thanh Hà- Hải Dương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ninh Giang đã trao trả cho chị Luân là phù hợp; Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter, biển số 34M4- 5109, bị can Q sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, là vật chứng trong vụ án khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra 4 Công an huyện Thanh Hà tiếp tục quản lý, xử lý theo quy định. HĐXX không xem xét, giải quyết. [8]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo Đỗ Văn Q thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38- Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136; Điều 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12; điểm a khoản 1 Điều 23- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bố: Nguyễn Văn S, Đỗ Văn Q phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 13 (Mười ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Q 9 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm; Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đỗ Văn Q. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (08/10/2019). Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./. Nơi nhận: - Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương; - VKSND tỉnh Hải Dương; VKSND huyện Ninh Giang; - Cơ quan CSĐT- Công an huyện Ninh Giang; - Cơ quan THAHS- Công an huyện Ninh Giang; - Bộ phận HS- NV- Công an huyện Ninh Giang; - THADS huyện Ninh Giang; - Bị cáo; - Bị hại; - Lưu hồ sơ vụ án. T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà BÙI QUÝ LONG 5

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phạm Minh H, Bùi Thị Kim H1 "Tranh chấp HĐCN QSD đất" Nguyễn Văn T

Bản án số: 21/2020/DS-ST ngày 03/07/2020 37 18 Tên bản án: Phạm Minh H, Bùi Thị Kim H1 "Tranh chấp HĐCN QSD đất" Nguyễn Văn T (27.08.2020) Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Cấp xét xử: Sơ thẩm ...