Chuyển đến nội dung chính

bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” và “Cướp giật tài sản” - phạm tội cướp giật tài sản (điều 171 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)

5
ngày 28/04/2020
  • 11
  • 7
  • bị cáo Nguyễn Văn D về tội "Trộm cắp tài sản" và "Cướp giật tài sản" - phạm tội cướp giật tài sản (điều 171 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
  • Sơ thẩm
  • Hình sự
  • TAND huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh
  • Không
  • 0
  • Nguyễn Văn D về tội "Trộm cắp tài sản" và "Cướp giật tài sản"

  • Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0




TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU TỈNH TÂY NINH Bản án số: 05/2020/HS-ST Ngày: 28-4-2020 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH - Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Thiều Thị Phượng. Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Trần Minh Châu; 2. Ông Mai Văn Tự. - Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Quỳnh Như, Thư ký Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu tham gia phiên tòa: Bà Mai Thị Diệu Hiền, Kiểm sát viên. Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Văn D, sinh năm: 1978, tại tỉnh B; nơi ĐKNKTT: Ấp A, xã V, huyện H, tỉnh B; nơi cư trú hiện nay: Ấp T, xã T, Huyện D, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Huỳnh Thị T (chết); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có. Bị bắt tạm giữ từ ngày 05-11-2019, chuyển sang tạm giam từ ngày 11-11-2019 cho đến ngày bị cáo có mặt tại phiên tòa. - Bị hại: Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1948; địa chỉ cư trú: Ấp P, xã P, Huyện G, tỉnh T (có mặt). Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1958; địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T, Huyện D, tỉnh T (có mặt). NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ ngày 13 tháng 12 năm 2018, Nguyễn Văn D đi bộ đến nhà bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1958, ngụ ấp T, xã T, Huyện D, tỉnh T để trộm cắp tài sản. Đến nơi, D phát hiện cửa nhà bà N không khóa nên đã lén lút đi vào bên trong phòng ngủ thứ hai mở cửa tủ lục soát và lấy trộm một túi nylon màu đen, bên trong có số tiền 7.000.000 đồng bỏ vào túi quần đang mặc. Sau đó, D đi đến phòng bếp căn nhà và nhìn thấy bà N đang nằm ngủ, trên cổ đeo sợi dây chuyền vàng 18k, trọng lượng 04 chỉ nên nảy sinh ý định giật sợi dây chuyền vàng. Lúc này, D đi lại trước đầu giường, dùng tay trái vén mùng lên và dùng tay phải giật mạnh sợi dây chuyền vàng của bà Ngọc đang đeo trên cổ rồi nhanh chóng tẩu thoát. Đến khoảng 10 giờ ngày 14 tháng 12 năm 2018, D đi đến tiệm vàng (không nhớ biển hiệu) thuộc địa bàn huyện C, thành phố H bán sợi dây chuyền vàng được số tiền là 10.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền do trộm cắp và tiền bán sợi dây chuyền D đã tiêu xài hết. Ngoài ra, Dcòn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện G, cụ thể như sau: Khoảng 12 giờ ngày 04 tháng 11 năm 2019, D thuê xe honda ôm từ xã T, Huyện D, tỉnh T sang Campuchia để đánh bạc và thua hết tiền. Sau đó, D thuê xe honda ôm quay về đến khu vực thị trấn G, huyện G, tỉnh T nhưng không có tiền trả nên người chạy xe ôm kêu D xuống xe. Trên đường đi bộ về hướng xã T khi ngang qua nhà của ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1948, ngụ ấp P, xã P, huyện G, tỉnh T thì phát hiện nhà ông L mở đèn sáng, không đóng cửa và những người trong nhà đã đi ngủ. D đã lén lút vào trong nhà của ông L lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wiko Jerry và chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu đỏ-đen biển số 70F1 – 411.34 dựng bên trong nhà ở phần chữ L rồi đẩy ra đường, nổ máy xe điều khiển về hướng thành phố H tiêu thụ. Khoảng 00 giờ ngày 05 tháng 11 năm 2019, D điều khiển xe trên Quốc lộ 22 đến đoạn đường thuộc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh T thì bị lực lượng Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh T đang tuần tra kiểm soát giao thông ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra. Thấy D có biểu hiện nghi vấn nên lực lượng Cảnh sát giao thông mời D về trụ sở làm việc và xác định D đã trộm chiếc xe mô tô biển số 70F1 – 411.34 của ông L nên đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện G xử lý. Sau đó, chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện D để nhập vụ án xử lý theo thẩm quyền. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh T, Nguyễn Văn D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Kết luận định giá tài sản số 111/KL-HĐ ngày 15/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện G, kết luận: + 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu đỏ-đen, biển số 70F1 – 411.34, xe đã qua sử dụng có giá trị là 13.500.000 đồng. + 01 điện thoại di động hiệu Nokia X1, màu đỏ-đen, đã qua sử dụng có giá trị là 200.000 đồng. + 01 điện thoại di động hiệu Wiko Jerry, đã qua sử dụng có giá trị là 500.000 đồng. Kết luận định giá tài sản số 46/KLĐG- HĐĐG ngày 13/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Huyện Dương Minh Châu, kết luận: 01 sợi dây chuyền dạng mắt xích vàng 18k, trọng lượng 04 (bốn) chỉ có giá trị 10.169.200 đồng. Do Nguyễn Văn D không có tài sản riêng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện D không tiến hành kê biên. Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Thành L đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường gì thêm; bà Nguyễn Thị N yêu cầu Nguyễn Văn D bồi thường số tiền 17.169.200 đồng. Tại phiên tòa: * Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng số 04/CT-VKS-DMC ngày 20-02-2020 truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội "Trộm cắp tài sản" và "Cướp giật tài sản" đề nghị: - Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội "Trộm cắp tài sản" và cướp giật tài sản"; căn cứ khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 585, 589 cuả Bộ luật dân sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù đối với tội trộm cắp tài sản; Từ 24 (hai mươi bốn) đến 30 (ba mươi) tháng tù đối với tội cướp giật tài sản và tổng hợp hình phạt theo quy định của pháp luật: Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Thành L đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường gì thêm; bị cáo tiếp tục bồi thường cho bà Nguyễn Thị N số tiền 17.169.200 đồng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. * Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu và không có ý kiến gì tranh luận với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát; bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình, bị cáo hứa không tái phạm nữa. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Tính hợp pháp của hành vi, Quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an Huyện Dương Minh Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp. [2] Về hành vi phạm tội: vào khoảng ngày 13-12-2018, tại ấp T, xã T, Huyện D, Nguyễn Văn D đã thực hiện hành vi "Trộm cắp tài sản" số tiền là 7.000.000 đồng và thực hiện hành vi "Cướp giật tài sản" là sợi dây chuyền vàng 18k, trọng lượng 04 chỉ của bà Nguyễn Thị N có giá trị là 10.169.200 đồng, ngoài ra ngày 04/11/2019 tại ấp P, xã P, huyện G, bị cáo Nguyễn Văn D đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là chiếc xe mô tô biển số 70 F1- 411.34 và hai diện thoại động nhãn hiệu Nokia X1, Wiko Jerry của ông Nguyễn Thành L có tổng giá trị là 14.200.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội "Trộm cắp tài sản", và "Cướp giật tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 và khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. [3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi trộm cắp tài sản không những xâm phạm tới quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng tới an ninh trật tự tại địa phương, bị cáo nhận thức được điều này nhưng do lười lao động nên đã thực hiện hành vi trộm cắp của bà Nc số tiền 7.000.000 đồng và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Thành L 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 70F1- 411.34, hai diện thoại động nhãn hiệu Nokia X1 và Wiko Jerry giá trị là 14.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã thực hiện trộm cắp là 21.200.000 đồng. Đối với hành vi cướp giật tài sản bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại khi đang ngủ không thể kháng cự được nên đã dùng tay phải giật mạnh sợi dây chuyền vàng của bà N có trọng lượng 04 chỉ vàng 18k có giá trị là 10.169.200, điều này thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật của bị cáo, đồng thời còn gây hoang mang cho mọi người. Vì vậy cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng chống tội phạm. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn D là có căn cứ. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội từ 02 lần trở lên nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị cáo được hưởng khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét thấy hành vi "Trộm cắp tài sản" và "Cướp giật tài sản" của bị cáo D là cố ý, nguy hiểm cho xã hội bị cáo chưa bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo trở thành một công dân tốt. [5] Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. [6] Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho bà Nguyễn Thị N số tiền 17.169.200 đồng . [7] Về án phí sơ thẩm trong vụ án: Căn cứ vào các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăn nghìn) đồng Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu: 858.460 đồng. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội " Trộm cắp tài sản" và "Cướp giật tài sản". Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-11-2019. Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-11-2019. Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu chung của hai tội là 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-11-2019. 2. Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Thành L đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm; Bị cáo tiếp tục bồi thường cho bà Nguyễn Thị N số tiền 17.169.200 (mười bảy triệu một trăm sáu mươi chín nghìn hai trăm) đồng. 3. Án phí hình sự: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Án phí dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 858.460 (tám trăm năm mươi tám nghìn bốn trăm sáu mươi) đồng. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền nêu trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015. 4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Nơi nhận: - TAND tỉnh TN; - VKSND tỉnh TN; - Sở Tư pháp; - VKSND H.DMC; - CQĐT CA H.DMC; - Nhà tạm giữ CA H.DMC; - Chi cục THADS H.DMC; - PV06 – Công an tỉnh TN; - Vụ Giám đốc kiểm tra I; - Bị cáo; - Những người tham gia tố tụng khác; - Lưu hồ sơ. TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Thiều Thị Phượng

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phạm Minh H, Bùi Thị Kim H1 "Tranh chấp HĐCN QSD đất" Nguyễn Văn T

Bản án số: 21/2020/DS-ST ngày 03/07/2020 37 18 Tên bản án: Phạm Minh H, Bùi Thị Kim H1 "Tranh chấp HĐCN QSD đất" Nguyễn Văn T (27.08.2020) Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Cấp xét xử: Sơ thẩm ...